Vào năm 1500, bạn tình ông Jacob Nufer ở một thị trấn tại Thụy Sĩ chuyển dạ tuy nhiên ko đẻ được hoặc có nguy cơ qua đời. Hơn mười bà đỡ của thị trấn đã cố hỗ trợ bà tuy vậy không được hay thông qua ko lây thầy thuốc ở địa phương, nhà tôi bà - nghe nghề hoạn lợn - liều phẫu thuật bạn tình để lấy con ra. Vào thời ấy, tương đối khó có người sống sót sau đây một cuộc giải phẫu như vậy, nên hai người vợ nhà tôi đã nói lời vĩnh biệt trước khi ông Jacob Nufer thực hiện cuộc phẫu thuật. hệ lụy, hai mẹ con đều khỏe mạnh. Ca mổ thành công nhờ thể lực tốt của sản phụ hay tay dao khéo của đối tượng nhà tôi, nhưng đa số là nhờ bạn gái chửa ngoài tử cung. Nếu mang bầu bình thường, chắc bà Nufer đã lìa đời do xuất huyết ồ ạt bởi vì vách buồng dạ con bị phá. Ca mổ này được đa số rất nhiều nhà khoa học cho rằng là ca đẻ mổ số một trên thế giới.có nguy cơ như... nhổ răng 500 năm dưới đây, đẻ mổ đã trở nên có thể hay phổ biến như... Chuyện nhổ răng. Tại Chile, đất nước lây tỉ lệ sinh phẫu thuật cao đặc biệt hành tinh, sinh phẫu thuật chiếm đến 40% hoàn toàn một số ca trở dạ. tuy thế xét về khu vực, châu Á lại là nơi mang cao ca đẻ phẫu thuật nhất, nhất là Hàn Quốc (36,4% trong năm 2006), Đài Loan (33%), Singapore (30%) hay Trung Quốc (26%). thống kê chưa phổ biến thức của Tổng Y viện Bangkok cho thấy tỉ lệ sinh mổ toàn quốc là 65%. thông qua việc đẻ mổ mối liên hệ tới tỉ lệ bỏ mạng cao của sản phụ và một số thông tin sức khỏe khác, những con đường dây nóng trên là đáng báo động. Sự sợ hãi càng nguy kịch khi một vài điều tra mới đây tại Mỹ cho biết sự tăng trưởng tỉ lệ sinh mổ - hiện là 31%, tăng 50% so với phương hướng đây mười năm - trùng hợp với gia tăng tỉ lệ lìa đời của bà mẹ (mặc dù mối quan hệ này chưa rõ ràng tuyệt đối). Cứ 100.000 ca đẻ ở Mỹ năm 2003 chứa 12,1 bà mẹ thiệt mạng - lần đầu vượt đường dây nóng 10 trong vòng 26 năm. Năm 2004, con số này là 14. sau mười năm khảo sát, giáo sư Eugene Declercq thuộc Trường Y của Đại học Boston thừa nhận “có bởi vì chứng hiển nhiên về tỉ lệ lìa đời lớn trong những trường hợp đẻ phẫu thuật với rất nhiều bà mẹ nhiễm đe dọa thấp”, hay ông gợi ý nữ giới nào ước muốn đẻ phẫu thuật có tự hỏi tại vì sao trong khi “bà và con bà đều khỏe mạnh”. cần có nhớ là việc sinh con bình thường không phải lúc nào cũng là chọn lựa hấp đưa. Với phần lớn phái yếu, việc đẻ con tự nhiên là một trong một số nỗi buốt thân xác nặng nề đặc biệt mà họ có nguy cơ trải tới, trừ một vài tai nạn nặng. mức độ đau thắt sinh của lần đẻ đầu khoảng 7-12 giờ, tuy vậy có nguy cơ kéo dài tới 20 giờ và lâu hơn nữa. Nhìn biện pháp nào đó, việc đẻ con cũng giống một ca cấp cứu. Thật ra, nếu k mắc sự đối phó y học, trong 67 ca sẽ lây một ca qua đời. Việc sợ đau đớn khi sinh đẻ là điển hình đáng hoặc người ta ko lấy tuân lạ khi thấy lớn thai phụ chọn phác đồ sinh mổ mà mức độ đẻ chỉ kéo dài khoảng 40 phút. Khi số tiền không còn là kiến thức, rất nhiều bà thích đẻ phẫu thuật hơn. Tại Hong Kong, tỉ lệ sinh mổ ở một số bệnh viện tư là hơn 45%, còn tại đại lục là 27%. Họ cũng ước muốn chẩn đoán ngày giờ sinh để xin phép nghỉ hộ sản hay xin sinh phẫu thuật vào ́một vài ngày tốt theo tử vi.và vài biến thể nhưng, việc sinh mổ k phải không lây trở ngại hay ca phẫu thuật dừng lại với mối dây may như vậy ở bụng dưới. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đề nghị bà mẹ cho trẻ bú trong vòng một giờ dưới đây khi đẻ, vì một số miễn dịch cấp thiết hay protein bảo vệ - sự tạo kháng thể thứ nhất đời - được cung cấp qua những giọt sữa quí báu đầu tiên. tuy nhiên việc xem con bú sẽ tương đối khó khăn nếu bà mẹ chỉ vừa tỉnh lại, chưa kể một số trường hợp mê man nhiều giờ sau khi mổ. Trong ́một vài ngày dưới đây khi phẫu thuật, phụ nữ có khi lớn về huyết học và lây viêm nhiễm. Đây là nội dung chung cho mọi cuộc giải phẫu, tuy nhiên cũng mắc nghĩa là sinh phẫu thuật có nguy cơ lìa đời cao hơn đẻ con tự nhiên. Con hotline 12,1 bà mẹ bỏ mạng trong mỗi 100.000 ca đẻ ở Mỹ năm 2003 có thể trở thành con hotline 36 nếu chỉ xét riêng đường dây sinh mổ - hoặc sự khác biệt, theo tạp chí Obstetrics and Gynecology, “có thể được gán cho rằng điển hình việc giải phẫu”. Bạn chứa biết sui mao ga kieng an gi để tốt cho rằng cơ thể k. như vậy, những phụ nữ đẻ phẫu thuật sẽ bị mắc phải vai trò giảm thụ thai, nếu muốn chứa thêm con. Một thống kê năm 2004 cho rằng nữ giới đã đẻ mổ chứa vấn đề về có bầu nhiều gấp bốn lần so với đàn bà sinh bình thường. những phái đẹp sinh phẫu thuật cũng có thể gặp những có khả năng mang thai ngoài dạ con, nhau thai nhi nằm ko đúng chỗ tạo ra ra máu hay cao rắc rối khác. hoặc bằng vết sẹo đẻ mổ lần trước có khả năng đứt khi sinh tự nhiên, mang theo một vài Di chứng tai hại khác - nên rất nhiều đứa con sau đây cũng phải được sinh mổ, hoặc một vài có thể lại tăng cường ở mỗi lần sinh. Giáo sư Tan Kok Hian của phòng khám thiếu nữ hay trẻ nhỏ KK ở Singapore nói: “Nếu ko mang tác nhân y khoa phổ biến đáng để thực hiện sinh mổ, một số thai phụ nên đẻ con theo hướng tự nhiên”.Tự nhiên vẫn tốt hơn Mặc dù mang một số nguy hại hoặc trở ngại trong việc đẻ mổ tuy vậy lại chứa rất ít nỗ lực về phía điển hình phủ nhằm giảm tỉ lệ đẻ mổ nhiều ở châu Á. Một trong một số thí dụ là vào năm 2004, chủ yếu quyền Hàn Quốc mở chiến dịch nhầy cổ vũ việc sinh con tự nhiên hoặc mở cao lớp học phí sinh sản, giúp thiếu nữ học những kỹ thuật giảm đau quặn lúc sinh con tự nhiên. “Nói chung, con gái Hàn Quốc đã được giáo dục nhiều về thông tin này - Kim Jae Sun, thuộc công ty Bảo hiểm y tế Hàn Quốc nói - tuy thế chiến dịch được tài trợ quá ít ỏi hay lộn xộn”. Tại Thái lan nhiễm, quan điểm bênh vực cho trở dạ tự nhiên tuyệt đối cao đối tượng tuân theo. b.sĩ Tanit Habanananda, thuộc Quĩ vận động đẻ con tự nhiên hoặc cho con bú ở Thái lây nhiễm, nói: “Việc hoạt động này cũng giống như đẩy hòn đá lên dốc vậy. Chúng tôi thật nản lòng. Thật là dễ khi xin đẻ phẫu thuật ở Thái Lan”. người vợ ông, thầy thuốc Melanie Habanananda, nói thêm: “Nếu bạn áp dụng định nghĩa “sinh sinh tự nhiên” ở đây, người ta nghĩ rằng bạn ý muốn ngồi giữa đồng để sinh con. Việc sinh mổ đã trở thành mốt ở đây, nhất là các bạn nữ trung lưu”. Tại trung tâm y tế tư nhân Samitivej, Bangkok, 1/3 đứa trẻ ra đời thông qua đẻ phẫu thuật, mặc dù ở đây chứa một khu vực khoa sản được chuyên gia Tanit Habanananda thành lập để cổ vũ việc sinh con tự nhiên. Trong khi đó những bà mẹ nước ngoài, chiếm đa số ở bệnh viện Samitivej, lại thích sinh con tự nhiên hơn. Nói chung, các trung tâm y tế gặp khó khăn trong việc cổ vũ đẻ con tự nhiên, trong đó bị một vài lý lẽ về nội dung phái yếu quyền - ở đây ước muốn nói tới một số b.sĩ tìm cách giảm niềm tin tưởng của bạn nữ vào việc đẻ con tự nhiên, nên thiếu nữ xếp hàng đẻ mổ hay cơ sở y tế có thêm nguồn thu nhập. bs Melanie Habanananda nói: “Tôi qui trách nhiệm xem một vài bs sản khoa. Họ ko hỗ trợ thai phụ tin cậy vào thân thể của mình... Họ tạo một môi trường lo lắng quanh việc đẻ đẻ”. Tại Đài Loan, bs Kuo Su-chen, giáo sư khoa hộ đẻ Trường Hộ sinh Đài Bắc, nói việc sinh phẫu thuật trở nên quen thuộc “vì các b.sĩ không trọn vẹn kiên nhẫn. Họ mong muốn ca phẫu thuật dừng lại nhanh”.