Tổng Quan những thay đổi thất thường về màu da gây ra những vấn đề thẩm mỹ quan yếu và tác động tới chất lượng cuộc sống. với 2 hàng ngũ thay đổi màu da bất thường; tăng sắc tố và giảm sắc tố. tăng sắc tố, khiến sạm màu da do sắc tố quá mức, là mối để ý to đối với người châu Á mang làn da nâu vàng. 1 loạt những tác nhân giảm sắc tố đã được dùng, nhưng điều trị hiện trạng tăng sắc tố vẫn còn phổ biến thách thức và kết quả thường ko được khuyến khích. Bột sâm ginseng đã được tiêu dùng theo truyền thống ở Đông Á để điều trị các bệnh khác nhau, do những hoạt động điều hòa miễn nhiễm, bảo vệ thần kinh, chống oxy hóa và chống ung thư. vừa qua, 1 số Thống kê đã chỉ ra rằng chiết xuất, bột sâm hoặc 1 số thành phần của nhân sâm sở hữu thể ức chế sự nảy sinh melanogen in vivo hoặc in vitro. những cơ chế căn bản của những đặc tính chống vi trùng trong nhân sâm hoặc các thành phần của nó bao gồm ức chế trực tiếp những enzyme cốt yếu của melanogenesis, ức chế các nguyên tố phiên mã hoặc các trục đường truyền tín hiệu liên quan tới melanogenesis, giảm cung ứng những chất gây ra melanogenogen và nâng cao cường sản xuất các nhân tố chống melanogen. mặc dầu vẫn còn một số vấn đề gây tranh luận xung quanh hoạt động chống vi trùng của nhân sâm, đặc thù là trong tác dụng của nó đối với việc cung ứng những cytokine tiền viêm và oxit nitric, các phát hiện gần đây cho thấy nhân sâm và những thành phần của nó với thể là người tìm việc tiềm năng cho những chất khiến trắng da mới.Giới thiệuBột sâm ginseng (nhân sâm) đã được tiêu dùng truyền thống ở Đông Á trong hàng nghìn năm. Nó đã được sử dụng bằng trục đường uống để điều trị các bệnh khác nhau bao gồm nâng cao áp huyết, đái tháo dỡ tuyến phố, rối loàn chức năng gan và thận, rối loàn tâm thần và rối loàn hậu mãn kinh. không những thế, những vận dụng tại chỗ cũng đã được sử dụng để chữa lành vết thương và giảm viêm da. Trong vài thập kỷ qua, người ta đã chứng minh rằng chiết xuất nhân sâm đích thực cho thấy một loạt những tác dụng chống lại bệnh tật của con người. Tác dụng điều trị tiềm năng của chúng cốt yếu được quy cho điều hòa miễn dịch , bảo kê thần kinh, chống oxy hóa, chống ung thư và hoạt động bảo kê gan. Nhân sâm mang chứa 1 số hoạt chất bao gồm ginsenosides, polysacarit, phytosterol, peptide, polyacetylenes, axit béo, và rượu polyacetylenic, có tác dụng khác nhau đối với chuyển hóa carbohydrate và lipid, nhận thức, angiogen hệ thống. Trong số các thành phần hoạt động của nhân sâm, ginsenosides được biết tới là thành phần hoạt tính sinh học chính của nhân sâm và được nghiên cứu phổ biến nhất. một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng ginsenosides đóng vai trò quan trọng trong tác dụng dược lý của nhân sâm. tới bây giờ, hơn 30 ginsenosides khác nhau đã được phân lập và xác định trong khoảng nhân sâm. ngoài ra, nhân sâm sở hữu đựng các thành phần khác, bao gồm ginsenoyne, những hợp chất phenolic, polyacetylenes, sesquiterpenes, methoxypyrazine, những dẫn xuất của alkylpyrazine, alcohpiterpene, panasinsanols và-carboline. những chức năng sinh vật học của những hợp chất này đang được nghiên cứu bởi một số nhà nghiên cứu. Có 2 chế phẩm nhân sâm truyền thống; nhân sâm trắng và hồng sâm. Nhân sâm trắng được bóc vỏ, sấy khô, củ nhân sâm và nhân sâm đỏ được phân phối bằng cách thức hấp củ sâm tươi ở 98 nhiệt độ 100 ° C trong hai phút 3 giờ, sau ấy sấy cho đến khi độ ẩm <15% . Nhân sâm đỏ và trắng đều được chứng minh là có tác dụng điều hòa miễn nhiễm , chống viêm, chống oxy hóa và những hoạt động chống ung thư. Hơn nữa, nhân sâm đỏ đã được Báo cáo là với hoạt động dược lý mạnh hơn so có nhân sâm trắng ở một số khía cạnh. Sự khác biệt trong hoạt động sinh học giữa nhân sâm đỏ và trắng là do sự đổi thay hóa học của ginsenosides sau thời kỳ hấp. Hấp một phần chuyển đổi các ginsenoside ban đầu thành những dẫn xuất khử khí. bởi vậy, những loài và số lượng ginsenosides tương đối khác nhau dựa trên bí quyết chế biến được dùng. Cho thấy tổng cộng 53 và 43 hợp chất đã được xác định trợ thời trong những loại hồng sâm và hồng sâm tương ứng. những hợp chất đặc thù cốt yếu là malonyl ginsenosides trong nhân sâm trắng và những sản phẩm decarboxyl của mal-ginsenosides và các hợp chất khử nước từ ginsenosides cực đặc biệt trong nhân sâm đỏ. Điều thú vị là ginsenosides cho thấy một loạt những hoạt động sinh vật học, dù rằng tỷ lệ tiếp nhận từ ginsenosides còn nguyên vẹn bằng đường uống rất rẻ. Trong tuyến đường ruột của con người, ginsenosides được chuyển hóa bởi vi khuẩn con đường ruột và các chất chuyển hóa được hấp thu. vì thế, các hành động dược lý của các ginsenoside này mang can dự chặt chẽ đến sự biến đổi sinh học của chúng bởi vi khuẩn đường ruột của con người. Trong bối cảnh này, các chiến lược lên men đã được tiêu dùng để cải thiện sự tiếp thụ bằng mồm và sinh khả dụng. 1 số nghiên cứu cho thấy rằng việc chuyển đổi ginsenosides thành ginsenosides khử khí là cấp thiết để tăng hiệu quả của nhân sâm trên thân thể. những thay đổi bất thường về màu da gây ra những vấn đề thẩm mỹ quan trọng sở hữu tác động thụ động đến chất lượng cuộc sống. với hai lực lượng rối loạn sắc tố: rối loạn phân bố định lượng và định lượng của sắc tố thường ngày và sự hiện diện thất thường của các sắc tố ngoại sinh hoặc nội sinh trên da. nhóm đầu tiên bao gồm tăng sắc tố và giảm sắc tố (leukodermia). tăng sắc tố là khiến sạm màu da do sắc tố quá mức. thường nhật, các vấn đề tăng sắc tố là mối quan tâm chính đối có người da màu. những bệnh can dự tới nâng cao sắc tố bao gồm nám, lentigines, nevus, ephelis, tàn hương, nâng cao sắc tố sau viêm, và đốm tuổi. tăng sắc tố sau viêm xuất hiện ở đa dạng trạng thái da, bao gồm mụn trứng cá, chàm và viêm da xúc tiếp. trong khi đó, giảm sắc tố là khiến cho sáng da do không đủ sắc tố. Màu da được xác định bởi những nhân tố khác nhau bao gồm hàm lượng melanin, hiện trạng oxy hóa của huyết sắc tố trong những mao mạch, hàm lượng caroten, hàm lượng nước và công ty các sợi collagen trong lớp hạ so bì. Trong số các nhân tố này, melanin là yếu tố chính quyết định màu da. Trong bối cảnh này, việc hiểu các cơ chế can dự đến melanogenesis rất được quan tâm về mặt dược khoa và thẩm mỹ. Melanogenesis là 1 trục đường sinh hóa chịu nghĩa vụ tổng hợp melanin được kiểm soát bởi những cơ chế điều tiết phức tạp. Melanogenesis xảy ra trong các tế bào melanocytes bị giam giữ trong các bào quan tế bào chất biệt lập gọi là melanosome, với cất những enzyme chính yếu của melanogenesis. Sự dị biệt về màu da có liên quan đến kích thước, số lượng, hình dáng và sự phân bố của melanosome, khi mà mật độ melanocyte thường vẫn tương đối ổn định. mặc dù tyrosinase là enzyme điều hòa cốt yếu của melanogenesis, nhưng protein can hệ đến tyrosinase (TRP) -1, dopachrom tautomerase (DCT / TRP2) và protein ma trận melanosomal (Pmel17, MART-1) thực hành vai trò quan yếu trong việc điều hòa melanosomal những gen của tyrosinase, TRP-1 và DCT đựng những vị trí khởi đầu phiên mã đa dạng, những vị trí gắn yếu tố phiên mã can dự tới microphthalmia (MITF). MITF đóng một vai trò quan trọng trong việc điều hòa phiên mã của melanogenesis. những trục đường dẫn truyền tín hiệu nội bào của protein kinase C, AMP tuần hoàn (cAMP) và nitơ oxit có can hệ đến sự điều hòa melanogenesis. các yếu tố nội sinh và ngoại sinh khác nhau, chẳng hạn như bức xạ estrogen và tia cực tím (UV), tác động đến sự hình thành melanogen duyệt tuyến đường dẫn truyền tín hiệu. những yếu tố nội sinh / ngoại sinh này tác động trực tiếp lên các tế bào melanocytes hoặc gián tiếp duyệt y những tế bào da tiếp giáp với. Melanocytes, keratinocytes, nguyên bào sợi và các tế bào da khác giao thiệp với nhau bởi các nhân tố được tiết ra và xúc tiếp với tế bào tế bào. Nó đã được chứng minh rằng sự tương tác giữa keratinocytes và melanocytes là rất quan trọng trong việc điều chỉnh melanogenesis. Keratinocytes kiểm soát sự phát triển và hoạt động của melanocyte duyệt y những nguyên tố hòa tan khác nhau và các phân tử kết dính tế bào. tuy nhiên, những nhân tố da đã được tậu thấy sở hữu liên quan đến việc điều chỉnh melanogenesis . đồng thời, các tế bào melanocytes kích thích tiết ra 1 số phân tử tín hiệu nhắm mục tiêu ko chỉ tế bào keratinocytes mà cả tế bào miễn nhiễm da. các yếu tố hòa tan được giải phóng bởi melanocytes bao gồm những cytokine tiền viêm và chemokine như interleukin (IL) -1α / 1β, IL-6, IL-8 IL-10, nguyên tố hoại tử khối u (TNF) -α, yếu tố tăng trưởng biến đổi (TGF) -β, catecholamine, eicosanoids, serotonin, nguyên tố kích thích tế bào melanocyte (α-MSH) và oxit nitric (NO). 1 loạt những tác nhân gây giảm sắc tố bao gồm hydroquinone, arbutin, tretinoin, axit kojic, axit azelaic, vitamin C, N-acetylglucosamine, niacinamide, axit linoleic, axit ellagic, axit dioic, chiết xuất từ đậu nành được tiêu dùng một mình hoặc hài hòa để điều trị nâng cao sắc tố bất thường. những tác nhân này với thể can thiệp vào công đoạn nám ở 1 số bước khác nhau của sắc tố da. ngoài ra, việc điều trị các trạng thái tăng sắc tố vẫn còn đa dạng thách thức và kết quả thường không được khuyến khích. bởi vậy, cần mang những chất làm cho trắng da mới mang hiệu quả cao và dung nạp được. Trong bài viết này, chúng tôi đã xem xét những Báo cáo cách đây không lâu khảo sát về tác dụng làm cho trắng da của nhân sâm và những thành phần của nó và những cơ chế hoạt động cơ bản, sau ấy thảo luận về tiềm năng của nó với nhân cách là ứng viên cho các chất khiến cho trắng da mới. Xem thêm: http://www.novaco.vn/ginseng-bot-sam-s79.html