Với các người bị mắc bệnh hội chứng về van tim, điều trị nội khoa sẽ được các bác sĩ chỉ định trong vài nếu nhẹ và vừa, chưa có tình trạng suy tim hoặc vài hiện tượng trở nặng. Thực tế cũng cho thấy rằng, nếu không cấp bách buộc phải phẫu thuật ngay, điều trị nội khoa là một biện pháp tích cực. Điều trị nội khoa là một biện pháp chữa trị tim mạch máu tích cực và quan trọng vì 2 lý vì sau: – trước tiên, có đa số trường hợp người bị bệnh là người to tuổi với chứng bệnh van tim thoái hoá có tình trạng mà ko thể can thiệp ngoại khoa do nguy cơ trong khi mổ. những lúc này, chữa nội khoa là tìm ra thiết thực nhất. => Tìm hiểu chữa viêm họng – Thứ hai, có một viễn cảnh thực tế là chữa nội khoa làm cho thay đổi tiến triển ngẫu nhiên của các hội chứng van tim, cho cần có khả năng trì hoãn hoặc tránh can thiệp ngoại khoa. Rối loạn chức năng tâm thu thất trái làm bởi hội chứng thiếu máu cơ tim là vấn đề cơ bản của đầy đủ người mắc bệnh tham gia trong thử nghiệm chữa nội khoa (thuốc ức chế men chuyển, kháng thụ thể angiotensin, thuốc giãn mạch máu, chẹn, lợi tiểu giữ kali) cho hội chứng suy tim. tuy vậy, một số thử nghiệm này bao gồm các người mắc bệnh bị bệnh van tim và một số nguyên tắc đã được học thường được áp dụng rộng rãi. Ðiều trị nội khoa có thể làm thay đổi chứng bệnh sử khi không của hội chứng van tim từ hai cách: – đầu tiên, diều điều trị nội khoa khiến chậm tiến triển bệnh lý van tim , ví dụ: làm cho chậm xơ hoá, sẹo hoá và canxi hóa bằng cách dùng kháng viêm trong một vài thể của bệnh lý van tim thoái hóa và hậu thấp. – Thứ hai, điều trị nội khoa có khả năng phòng tránh ngừa và cải thiện hậu quả tai hại của bệnh lý cơ tim thứ phát. ví dụ như, chữa thuốc giãn mạch có thể giúp đảm bảo cơ tim của một vài người mắc bệnh quá tải thể tích thất trái do hở van hai lá hoặc hở van động mạch chủ mạn tính. => Tìm hiểu thêm: viêm họng Sinh lý căn bệnh Hẹp van động mạch chủ vôi hóa có thể gây ra bởi giai đoạn vôi hóa của van ba lá, dễ ở lứa tuổi 40 – 50. hội chứng tiến triển rất hay liên quan xơ vữa động mạch và có khả năng mắc điều chỉnh bởi sức ép cơ học (hao mòn dần), lắng đọng lipid, và sự viêm nhiễm; căn bệnh động mạch vành cần thiết có ở 50% người bị bệnh với hẹp động mạch chủ đóng vôi và cả hai chứng bệnh trên đã có nhiều chi tiết nguy cơ giống nhau với mức độ tương tự. chứng bệnh van động mạch máu chủ hậu thấp thuờng có ảnh hưởng ra tổn thương hẹp – hở phối hợp và dễ kết hợp với bệnh van hai lá. Hẹp động mạch máu chủ phát triển chậm và khi đầu cung lượng tim duy trì ở mức chênh áp ngang van động mạch chủ tăng vừa bắt buộc. trong khi thất trái phì đại dần và máu qua động mạch vành ko đủ; người bị mắc bệnh có thể có nhức ngực ngay cả tự nhiên có căn bệnh mạch máu vành kết hợp. Sự tắc nghẽn dòng ra cố định ngừng sự tăng cung lượng tim lúc vận động và hiện trạng tụt huyết áp và ngất có khả năng xuất hiện trong khi gắng sức. Hậu quả là thất trái không thể vượt qua hiện trạng tắc nghẽn đường ra thất trái, và suy thất trái xuất hiện sau đó. người mắc bệnh hẹp chủ điển hình ko có tình trạng trong nhiều năm, trong khi hiện trạng xảy ra thì chứng bệnh nhanh gọn diễn tiến vô cùng xấu; cho bắt buộc tử vong dễ xảy ra trong vòng 3-5 năm sau đấy có biểu hiện. Kiểm soát hiện tượng Hẹp động mạch máu chủ có triệu chứng là một hiện trạng ngoại khoa và phát triển thành lý do chung nhất cho việc thay van ở các nước lớn mạnh. tuy nhiên, ở người mắc bệnh già yếu không thích hợp cho việc phẫu thuật thì hẹp động mạch chủ có triệu chứng là lí do làm nóng ngực và suy tim, và việc chữa nội khoa cho vài người bị bệnh này là cách chữa trị duy nhất để khiến suy giảm tình trạng. sử dụng thận trọng thuốc chẹn và nitrate có thể kiểm soát được nhức ngực, nhưng nitrate có khả năng có ảnh hưởng tụt huyết áp có tình trạng, đặc trưng là sử dụng sau đó gắng sức. Thuốc lợi tiểu có khả năng làm cho suy giảm triệu chứng sung huyết phổi, nhưng cũng phải nhớ rằng với những người bệnh hẹp động mạch máu chủ nặng thì phụ thuộc vào áp lực đổ đầy thất và việc dùng lợi tiểu qúa mức có khả năng gây nguy hiểm. Digoxin có lợi đối với người mắc bệnh rung nhĩ hoặc suy chức năng tâm thu thất trái. Rung nhĩ thường dung nạp kém và trong tình huống này phải cố gắng điều chỉnh nhịp xoang từ sốc điện chuyễn nhịp, hoặc thuốc chống loạn nhịp amiodarone. đông đảo những bác sỹ hạn chế sử dụng ức chế men chuyển trên vài bệnh nhân hẹp động mạch chủ và suy tim bởi vì các thuốc này không làm giảm hậu tải thất trái và nguy hiểm là có khả năng làm tụt huyết áp. Nhưng các nghiên cứu lâm sàng nhỏ đánh giá chữa trị ngắn hạn của vài thuốc giãn mạch máu đã loại bỏ vài mối nghi ngờ trên. ví dụ như, hai nghiên cứu lâm sàng nhỏ mô tả hữu hiệu tức thì của captopril trong hẹp động mạch máu chủ nặng (độ chênh áp trung bình qua van ĐMC là 78 và 93 mmHg) không một số không khiến cho tụt huyết áp mà còn khiến tăng cung lượng tim trung bình rõ ràng và áp lực mô mạch phổi bít suy giảm một biện pháp đáng kể trên rất nhiều người bị bệnh. Trong một vài nghiên cứu này, cung lượng tim trung bình tăng 41% trong các người bị mắc bệnh có suy tim thực sự. Hơn nữa người bị mắc bệnh có đáp ứng huyết động học rất hiệu quả từ việc trị liệu lâu ngày. nên một số nghiên cứu sâu hơn để chứng minh nhưng một điều rõ ràng là một vài người mắc bệnh suy tim có hẹp động mạch máu chủ có khả năng có tốt từ việc dùng ức chế men chuyển và một vài thuốc này đang được chia sẽ một liệu pháp thận trọng trong bệnh viện. Chống ngừa thứ phát Trong hẹp động mạch máu chủ, nghiên cứu về tiến triển trùng hợp đã cho thấy khoảng trống van giảm hằng năm là 0.1cm2, với sự tăng vận tốc trung bình dòng phụt qua siêu âm màu là 0.3 m/s/năm (tương đương với độ chênh áp tăng 7mmHg/năm). tuy nhiên, điều này thay đổi đáng kể và có xu thế nhiều hơn ở người già, ở một vài người có vôi hóa van ÐMC, có tăng lipid máu. Một nghiên cứu ở 170 người bệnh với nồng độ cholesterol trong máu cao hơn 5.2mmol/l (200mg/dl) thì suy giảm diện tích van ÐMC gấp đôi. Hơn nữa, một nghiên cứu hồi cứu có chủ đích vừa qua cho thấy việc dùng chất ức chế men HMG CoA(statin) liên quan đáng đề cập đến suy giảm tỉ lệ hẹp van ÐMC ( trung bình (SD) 0.06(0.16 ) cm2 so với 0.11 (0.11) cm2/năm). => Tìm hiểu thêm: cách chữa viêm họng hạt các nghiên cứu này có ngụ ý rõ ràng cho việc tránh ngừa thứ phát trong một số bệnh nhân hẹp ÐMC vôi hóa, và một số thử nghiệm đối chứng trùng hợp đã hình thành giả thuyết rằng chữa trị khiến cho giảm lipid máu bằng ức chế men HMG CoA dễ khiến cho chậm giai đoạn tiến triển của căn bệnh. một vài thử nghiệm chữa bằng aspirin và thuốc hạ áp cũng đã được chứng minh là có lợi.