1.1 Lịch sử bệnh: lậu là một bệnh nhiễm khuẩn, do song cầu Gram (-) Neisseria gonorhoeae gây nên. Bệnh thường lây trực tiếp qua ngủ tình dục không bảo vệ đường âm đạo, hậu môn và sinh dục-miệng. Xem thêm: >>> lậu mủ điều trị khỏi hẳn được không? trình bày bệnh ở nam giới thường là viêm niệu đạo cấp tính, ở chị em là viêm cổ tử cung có khả năng có hoặc không diễn đạt triệu chứng lâm sàng. Một số bộ phận khác cũng có lẽ sẽ bị mắc bệnh như hậu môn- trực tràng, họng, mắt... Mắc khuẩn huyết do lậu cũng có khả năng xảy ra và thường phối hợp với viêm khớp, tổn thương da. Mặc dù đã có thuốc chữa đặc hiệu nhưng nếu không được Nhận biết ngay lập tức hoặc chữa trị không đúng liệu trình bệnh có thể gây nhiều nguy hại nghiêm trọng như vô sinh, chửa ngoài tử cung... bệnh lậu được Galen đặt tên là Gonorrhea do ông nghĩ rằng mủ trong lậu mủ chính là dòng tinh dịch chảy ra: gonos= seed và rhoea=flow. Sau đó lên năm 1767 John Hunter tự cấy mủ lậu mủ cho mình, nhưng không may chỉ có bệnh giang mai xuất hiện, do vậy đã có sự hiểu lầm về bệnh. Năm 1879, Neisser đã phân lập được lậu khuẩn và được đặt tên là Neisseria gonorhoeae. Việc điều trị tiến bộ dần từ việc dùng gỗ đàn hương, dung dịch thuốc tím bơm vào rửa niệu đạo, sau đó đến năm 1930 khởi đầu dùng một số sulfamides. Những năm 1940 thuốc penixilin được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả. Gần đây có một vài loại thuốc dùng liều độc nhất vô nhị có hiệu quả rất cao. 1.2 Dịch tễ: Hàng năm trên toàn cầu có khoảng 62 triệu trường hợp mới bị lậu cầu , khu vực Đông và Đông nam Á có 29 triệu trường hợp. Việt nam giới, theo báo cáo hàng năm có hơn 3.000 trường hợp, tuy nhiên theo ước tính thì có khoảng vài chục ngàn trường hợp mỗi năm. Lậu mủ tăng đến do một số yếu tố, trong đó có tự do tình dục và tăng hoạt động tình dục do có một số biện pháp tránh bào thai. Lậu chủ yếu lây qua quan hệ tình dục. Trẻ sơ sinh có khả năng mắc viêm kết mạc mắt do đẻ qua đường sinh dục người mẹ mắc bệnh. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng phổ biến nhất ở lứa tuổi 15-35. Bệnh gặp một vài hơn ở tỉnh thành , một vài nhóm dân cư đặc biệt đóng vai trò quan trọng trong dịch tễ học lậu cầu (“core group”) như gái mại dâm, khách làng chơi, người nghiện ma tuý. Những người bệnh không dấu hiệu đóng vai trò quan trọng trong dịch tễ học lậu mủ. Một sự kiện quan trọng đã tác hại đến dịch tễ học bệnh lậu, đó là xuất hiện một số chủng bệnh lậu kháng kháng sinh Penixilin vào những năm 1970 (Penicillinase- producing strains of NG- PPNG). Hiện tại ở Việt nam giới đã xuất hiện các chủng kháng lại một số kháng sinh mới thuộc họ Quinolone. Tỷ lệ đấng mày râu bị mắc lậu mủ sau một lần ngủ tình dục qua âm đạo với thai sản mắc bệnh là 20-30%. Trái lại, tỷ lệ thai sản nhiễm bệnh sau một lần ngủ tình dục với nam giới bị bệnh là 60-80%. Nguy cơ truyền nhiễm qua một vài đường tình dục khác không được rõ. Chị em dùng thuốc tránh phôi thai hormon có nguy cơ cao hơn bị bệnh, dùng chất diệt tinh trùng có tác dụng diệt lậu mủ. 2. CẲN NGUYÊN VÀ BỆNH SINH lậu mủ khuẩn là một song cầu Gram (-) (Neisseria gonorhoeae) có hình thái đặc biệt, cầu khuẩn dẹt hình hạt đậu có trục dài song song nhau, không di động, không tạo nha bào, phát triển thành đôi với mặt dẹt quay vào nhau. Các biểu thị của lậu mủ cầu: - Hình hạt cà phê, sắp xếp thành từng cặp. - Bắt màu Gram (-) nằm trong bạch cầu đa nhân. - Dài khoảng 1,6m, rộng 0,8m, khoảng cách giữa hai vi rút 0,1m. - Nuôi cấy trên môi trường thạch máu hoặc nước báng phát triển nhanh. Bây giờ thường nuôi cấy trên môi trường Thayer-Martin và tiến hành kháng sinh đồ. - Sức đề kháng yếu: ra khỏi thân thể chỉ tồn tại một vài giờ. bệnh lậu không chịu được khô, do vậy khi lấy bệnh phẩm phải cấy ngay hoặc cho đến môi trường bảo quản. Lậu cầu ưa khí nhưng đòi hỏi áp suất CO2 5% khi nuôi cấy. Nhiệt độ thích hợp từ 35-37oC, pH 7,2-7,6. Môi trường nuôi cấy thích hợp là thạch Sôcôla hoặc loại tương tự, môi trường hiện tại đang sử dụng là Thayer-Martin. Kellogg và cộng sự đã phân lập được 4 chủng lậu mủ , trong đó có hai chủng gây bệnh cho người. Các chủng này có cấu tạo bề mặt dạng lông được gọi là pili. Bản chất của pili như là các yếu tố độc tính của bệnh lậu nhưng chưa được biết rõ, pili có thể là cách mà lậu mủ bám đến bề mặt niêm mạc hoặc chống lại đại thực bào. Chúng cũng có lẽ sẽ gồm cả việc tạo ra vỏ trong in vitro, chống lại các kháng thể trong huyết thanh. Lậu mủ so với các vi khuẩn Gram âm khác thì chúng rất nhạy cảm với kháng sinh, tuy nhiên trong một số thập kỷ qua, lậu đã trở nên kháng nhiều kháng sinh như sulfamides, penixillin, tetraxyclin, nhóm quinolon... Bệnh có thể phối hợp với nhiều tác nhân gây viêm niệu đạo khác, trong đó thường thấy nhất là Chlamydia trachomatis; nhiều lý do khác như nấm, trùng roi, Ureaplasma, Mycoplasma. 3. Dấu hiệu LÂM SÀNG một vài diễn tả , biểu hiện , tiến triển và ảnh hưởng của lậu mủ ở đàn ông và phái yếu rất khác nhau. Thường nhật lậu mủ ở nam giới có đặc điểm và phái yếu có dấu hiệu nhưng không biết hoặc không có diễn đạt . Biểu đạt bệnh bao gồm cả không diễn tả , diễn tả tại chỗ, một số tác hại tại chỗ và mắc trùng toàn thân. 3.1 lậu mủ ở đàn ông Viêm niệu đạo trước là biểu lộ thường gặp nhất của bệnh lậu ở đấng mày râu . Sau một lần làm tình tình dục với người bị bệnh qua đường âm đạo có khoảng 25% đấng mày râu mắc mắc bệnh. Có khoảng 85% đàn ông bị viêm niệu đạo do bệnh lậu sẽ diễn đạt cấp tính với các biểu hiện khó chịu, đái buốt và ra mủ, thường kèm theo phù nề và đỏ miệng sáo. Ra mủ niệu đạo là một biểu hiện đặc hiệu của bệnh lậu, mủ màu vàng, vàng xanh, số lượng một vài làm cho bệnh nhân rất lo lắng. Thời gian ủ bệnh từ 1-14 ngày, trung bình 2-5 ngày. Khoảng 25% người bệnh có dấu hiệu không rõ, biểu lộ ra dịch niệu đạo nhưng không nhiều và màu trong, không phân biệt được với viêm niệu đạo không do lậu mủ , một vài trường hợp không có bộc lộ . Nhiều người mắc bệnh này sẽ không được chữa và sẽ tiến hành tăng truyền nhiễm trong cộng đồng. Các bệnh nhân có dấu hiệu nếu không điều trị thì sau vài ngày vào vài tuần sẽ giảm đặc điểm cấp tính và có lẽ sẽ xảy ra nguy hại tại chỗ như viêm niệu đạo sau gây đái són đau, viêm mào tinh hoàn, viêm túi tinh và tuyến tiền liệt cấp hoặc mạn, viêm tuyến Cowper, tuyến Tyson. Nhiều trường hợp người nhiễm bệnh không có biểu hiện bệnh lý rõ ràng. Tuy nhiên, dù có hay không có dấu hiệu mà không được điều trị thì đều có lẽ sẽ xảy ra biến chứng .